Mẹo về Khai quát về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn Mới Nhất
Hoàng Gia Vịnh đang tìm kiếm từ khóa Khai quát về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn được Cập Nhật vào lúc : 2022-03-26 10:31:13 . Với phương châm chia sẻ Bí quyết về trong nội dung bài viết một cách Chi Tiết Mới Nhất. Nếu sau khi tham khảo tài liệu vẫn ko hiểu thì hoàn toàn có thể lại phản hồi ở cuối bài để Mình lý giải và hướng dẫn lại nha.
Khởi nghĩa Lam Sơn (1418-1427) là cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân Minh xâm lược do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc giành lại độc lập cho nước Đại Việt và thành lập nhà Hậu Lê.
Khởi nghĩa Lam Sơn gồm ba quá trình lớn: hoạt động và sinh hoạt giải trí ở vùng núi Thanh Hóa (1418-1423), tiến vào phía nam (1424-1425) và giải phóng Đông Quan (1426-1427).
Khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra trong toàn cảnh rất trở ngại vất vả. Nhiều cuộc nổi dậy chống Minh, điển hình là nhà Hậu Trần, đã bị dẹp một cách tàn khốc. Liên tiếp hai vua nhà Hồ, một vua nhà Hậu Trần bị bắt về Bắc, vua Trùng Quang và những tướng đều tử tiết. Trương Phụ tàn sát những người dân lính theo quân khởi nghĩa và cả dân thường rất tàn bạo (chặt đầu, đốt xác...) để khủng bố tinh thần người Việt. Mặt khác, những tướng nhà Minh như Hoàng Phúc, Trương Phụ đã thiết lập cỗ máy cai trị và lôi kéo được một lực rất đông người Việt giúp việc khá đắc lực như Mạc Thúy, Lương Nhữ Hốt, Trần Phong... Tinh thần chống đối của người Việt lúc đó đã lắng xuống quá nhiều so với thời nhà Hồ mới mất. Một lớp nhân tài nổi lên chống đối trước đây đã bị tiêu diệt hoặc vô hiệu hoá. Một số cuộc khởi nghĩa chống Minh vẫn hoạt động và sinh hoạt giải trí nhưng lẻ tẻ và không hoàn toàn có thể mở rộng.
Trong toàn cảnh đó, Lê Lợi đã đứng lên khởi nghĩa ở Lam Sơn, đúng như Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáo:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/ Chính lúc quân thù đang mạnh.../ Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá ngày thu.
HOẠT ĐỘNG Ở VÙNG NÚI THANH HÓA
Mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt, đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú... tất cả 19 tướng văn và tướng võ chính thức phất cờ khởi nghĩa Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, lôi kéo dân Việt đồng lòng đứng lên đánh quân xâm lược nhà Minh cứu nước.
Thời kỳ hoạt động và sinh hoạt giải trí ở vùng núi Thanh Hóa là quá trình trở ngại vất vả nhất của cuộc khởi nghĩa. Trong thời gian đầu, lực lượng của quân Lam Sơn chỉ có vài ngàn người, lương thực thiếu thốn, thường chỉ thắng được vài trận nhỏ và hay bị quân Minh đánh bại.
Bị quân Minh vây đánh nhiều trận, quân Lam Sơn khốn đốn ba lần phải rút chạy lên núi Chí Linh trong năm 1418, 1419, 1422 và một lần cố thủ ở Sách Khôi năm 1422. Một lần bị địch vây gắt ở núi Chí Linh (có sách ghi năm 1418, có sách ghi năm 1419), quân sĩ hết lương, người em họ Lê Lợi là Lê Lai theo gương Kỷ Tín nhà Tây Hán phải đóng giả làm Lê Lợi, dẫn quân ra ngoài nhử quân Minh. Quân Minh tưởng là bắt được chúa Lam Sơn nên lơi lỏng phòng bị, Lê Lợi và những tướng lĩnh thừa cơ mở đường khác chạy thoát. Lê Lai bị địch giải về Đông Quan và bị giết.
Ngoài quân Minh, Lê Lợi và quân Lam Sơn còn phải đối phó với một bộ phận những tù trưởng miền núi tại địa phương theo nhà Minh và quân nước Ai Lao (Lào) bị xúi giục hùa theo. Dù gặp nhiều trở ngại vất vả, quân Lam Sơn mấy lần đánh bại quân Ai Lao có lực lượng đông hơn. Tuy nhiên do lực lượng chưa đủ mạnh nên Lê Lợi thường cùng quân Lam Sơn phải ẩn náu trong rừng núi, nhiều lần phải ăn rau củ và măng tre lâu ngày; có lần ông phải giết cả voi và ngựa chiến của tớ để cho tướng sĩ ăn.
Trước tình thế hiểm nghèo, Lê Lợi phải xin giảng hòa với quân Minh năm 1422. Đến năm 1423, khi thực lực được củng cố, lại thấy quân Minh bắt giữ sứ giả, Lê Lợi liền tuyệt giao cắt đứt giảng hòa.
TIẾN VÀO NAM
Theo kế của Nguyễn Chích, năm 1424 Lê Lợi quyết định đưa quân vào đồng bằng Nghệ An. Tiến vào Nghệ An là một bước ngoặt về giải pháp trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Trên đường đi, quân Lam Sơn hạ thành Đa Căng, đánh lui quân cứu viện của viên tù trưởng địa phương theo quân Minh là Cầm Bành. Sau đó quân Lam Sơn đánh thành Trà Long. Tướng Minh là Trần Trí mang quân từ Nghệ An tới cứu Cầm Bành, bị quân Lam Sơn đánh lui. Lê Lợi vây Cầm Bành, Trí đóng ngoài xa không đủ can đảm cứu. Bị vây ngặt lâu ngày, Bành phải đầu hàng.
Lê Lợi sai Đinh Liệt mang quân vào đánh Nghệ An, lại mang quân nòng cốt cùng tiến vào, Trần Trí bị thua liền mấy trận phải rút vào thành cố thủ.
Lý An, Phương Chính từ Đông Quan vào cứu Trần Trí ở Nghệ An, Trí cũng mang quân ra ngoài đánh. Lê Lợi dùng kế nhử địch đến sông Độ Gia phá tan. Trần Trí chạy về Đông Quan, còn An và Chính lại chạy vào thành Nghệ An.
Tháng 5/1425, Lê Lợi lại sai Đinh Lễ đem quân ra đánh Diễn Châu, quân Minh thua chạy về Tây Đô (Thanh Hóa). Sau đó ông lại điều Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Triện tiếp ứng cho Đinh Lễ đánh ra Tây Đô, quân Minh bị thua phải rút vào cố thủ trong thành.
Lê Lợi một mặt siết vòng vây quanh thành Nghệ An và Tây Đô, mặt khác sai Trần Nguyên Hãn, Doãn Nỗ, Lê Đa Bồ đem quân vào Nam đánh Tân Bình, Thuận Hóa. Tướng Minh là Nhậm Năng ra đánh bị phá tan. Sau Lê Lợi lại sai Lê Ngân, Lê Văn An mang thủy quân tiếp ứng cho Trần Nguyên Hãn chiếm đất Tân Bình, Thuận Hóa. Quân Minh phải rút vào cố thủ nốt. Như vậy đến thời điểm ở thời điểm cuối năm 1425, Lê Lợi làm chủ toàn bộ đất đai từ Thanh Hóa trở vào, những thành địch đều bị vây hãm.
GIẢI PHÓNG ĐÔNG QUAN
Chiến thắng Tốt Động, Chúc Động
Tháng 8/1426, Lê Lợi chia quân cho những tướng làm 3 cánh Bắc tiến. Phạm Văn Xảo, Đỗ Bí, Trịnh Khả, Lê Triện ra phía tây bắc, Lưu Nhân Chú, Bùi Bị ra phía đông bắc; Đinh Lễ, Nguyễn Xí ra đánh Đông Quan.
Lê Triện tiến đến gần Đông Quan gặp Trần Trí lấy ra, liền đánh bại Trí. Nghe tin viện binh nhà Minh ở Vân Nam sắp sang, Triện chia quân cho Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả ra chặn quân Vân Nam, còn Triện và Đỗ Bí phù phù hợp với quân Đinh Lễ, Nguyễn Xí đánh Đông Quan.
Quân Vân Nam do Vương An Lão chỉ huy kéo sang. Phạm Văn Xảo phá tan viện binh Vân Nam. An Lão chạy về cố thủ ở thành Tam Giang. Trần Trí thấy mất viện binh bèn cầu viện Lý An ở Nghệ An. Lý An và Phương Chính để Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, mang quân vượt biển ra cứu Đông Quan. Quân Lam Sơn định đón đường ngăn ngừa nhưng không được. Lê Lợi liền giao cho Lê Văn An, Lê Văn Linh vây thành, còn mình kéo đại quân ra bắc.
Vua Minh sai Vương Thông, Mã Anh mang quân sang tiếp viện. Thông phù phù hợp với quân ở Đông Quan được 10 vạn, chia cho Phương Chính, Mã Kỳ. Lê Triện, Đỗ Bí đánh bại Mã Kỳ ở Từ Liêm, lại đánh luôn cánh quân của Chính. Cả hai tướng thua chạy, về nhập với quân Vương Thông ở Cổ Sở. Lê Triện lại tiến đánh Vương Thông, nhưng Thông đã phòng bị, Triện bị thua phải rút về Cao Bộ, sai người cầu cứu Nguyễn Xí.
Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem quân đến đặt phục binh ở Tốt Động, Chúc Động. Nhân biết Vương Thông định chia đường đánh úp Lê Triện, hai tướng bèn tương kế tựu kế dụ Thông vào ổ mai phục Tốt Động. Quân Vương Thông thua to, Trần Hiệp, Lý Lượng và 5 vạn quân bị giết, 1 vạn quân bị bắt sống. Thông cùng những tướng chạy về cố thủ ở Đông Quan.
Sử chép ba đạo quân ra Bắc của Lê Lợi chỉ có tổng số 9000 người. Các nhà nghiên cứu và phân tích nhận định rằng số lượng đó chưa đúng chuẩn vì những trận đánh của ba đạo quân này đều có quy mô khá lớn và lực lượng quân Minh sang nhập vào khá đông, do đó để giành thắng lợi, 3 cánh quân (sau đó lại phân thành 4) chắc phải đông hơn. Với một vài ngàn người khó đương nổi lực lượng đông và mạnh mẽ và tự tin của quân Minh như vậy. Căn cứ sách Đại Việt thông sử, khi quân Minh sắp rút về, Lê Lợi đã bàn với những tướng, đại ý rằng: quân Lam Sơn hiện có tổng số 25 vạn, ông dự tính sẽ cho 15 vạn về làm ruộng và tuyển lấy 10 vạn làm quân thường trực của triều đình. Qua đó thì thấy những cánh quân ra Bắc phải có một vài vạn mỗi cánh quân.
Lê Lợi được tin thắng trận liền sai Trần Nguyên Hãn, Bùi Bị chia hai tuyến đường thủy bộ tiến ra gần Đông Quan.
Lập Trần Cảo
Vương Thông thua chạy không đủ can đảm ra đánh, viện cớ tìm lại tờ chiếu của vua Minh Thành Tổ năm 1407 khi đánh nhà Hồ, có nội dung muốn lập lại con cháu nhà Trần (vì nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần nên Minh Thành Tổ lấy danh nghĩa lập lại nhà Trần để mang quân sang đánh nhà Hồ, nay Vương Thông muốn vin vào đó) ra điều kiện với Lê Lợi rằng Thông sẽ rút về nếu Lê Lợi lập con cháu nhà Trần làm vua.
Lê Lợi vì đại cuộc, muốn quân Minh nhanh gọn rút về nên đồng ý. Ông sai người tìm được Trần Cảo bèn lập làm vua, còn ông tự xưng là Vệ quốc công. Theo sử sách, Trần Cảo tên thật là Hồ Ông, tự xưng là cháu nội vua Trần Nghệ Tông, được tù trưởng châu Ngọc Ma tiến cử với Lê Lợi. Nhưng theo một số trong những sử gia mới gần đây, việc Trần Cảo mạo xưng hay thật sự là con cháu nhà Trần rất khó xác định, hoàn toàn có thể chữ “mạo xưng” mà sử sách ghi là vì những sử gia nhà Lê chép vào để giảm uy tín của Cảo.
Vương Thông ngoài mặt giảng hòa nhưng lại sai quân đào hào cắm chông phòng thủ và mật sai người về xin cứu viện. Lê Lợi biết chuyện liền cắt đứt giảng hòa.
Vây thành Đông Quan
Sau khi cắt đứt giảng hòa, Lê Lợi sai những tướng đi đánh chiếm những thành ở Bắc bộ như Điêu Diêu (Thị Cầu, Bắc Ninh), Tam Giang (Tam Đái, Phú Thọ), Xương Giang (phủ Lạng Thương), Kỳ Ôn, không lâu sau đều hạ được.
Đầu năm 1427, ông chia quân tiến qua sông Nhị Hà, đóng dinh ở Bồ Đề, sai những tướng đánh thành Đông Quan. Ông đặt kỷ luật quân đội rất nghiêm để yên lòng nhân dân. Do đó quân Lam Sơn đi đến những nơi rất được lòng dân.
Tướng Minh là Thái Phúc nộp thành Nghệ An xin hàng. Lê Lợi sai Thượng thư bộ Lại là Nguyễn Trãi viết thư dụ địch ở những thành khác ra hàng.
Nhân lúc quân Lam Sơn vây thành có vẻ như lơi lỏng, quân Minh ở Đông Quan ra đánh úp. Lê Triện tử trận ở Từ Liêm, Đinh Lễ và Nguyễn Xí bị bắt ở Thanh Trì. Sau Đinh Lễ bị giết, Nguyễn Xí trốn thoát được.
CHIẾN THẮNG CHI LĂNG-XƯƠNG GIANG
Cuối năm 1427, vua Minh Tuyên Tông điều viện binh cứu Vương Thông, sai Liễu Thăng mang 10 vạn quân tiến sang từ Quảng Tây; Mộc Thạnh mang 5 vạn quân từ Vân Nam kéo sang. Đây là hai tướng đã từng sang đánh Việt Nam thời nhà Hồ và nhà Hậu Trần. Theo những nhà nghiên cứu và phân tích, số lượng 15 vạn của tất cả hai đạo quân hoàn toàn có thể là nói thăng lên, trên thực tế nếu cộng số những đạo quân điều động từ những nơi thì tổng số chỉ có tầm khoảng chừng gần 12 vạn quân và cánh quân nòng cốt là của Liễu Thăng.
Nghe tin có viện binh, nhiều tướng muốn đánh để hạ gấp thành Đông Quan. Tuy nhiên, theo ý kiến của Nguyễn Trãi, Lê Lợi nhận định rằng đánh thành là hạ sách vì quân trong thành đông, chưa thể lấy ngay được, nếu bị viện binh đánh kẹp vào thì nguy; do đó ông quyết định điều quân lên chặn đánh viện binh trước để nản lòng địch ở Đông Quan.
Đầu tiên, ông ra lệnh dời người ở những vùng địch đi qua như Lạng Giang, Bắc Giang, Quy Hóa, Tuyên Quang, để đồng không để cô lập địch. Biết cánh Liễu Thăng là quân nòng cốt, ông sai Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Văn Linh, Đinh Liệt mang quân phục ở Chi Lăng, lại sai Lê Văn An, Lê Lý mang quân tiếp ứng. Đối với cánh quân Mộc Thạnh, ông biết Thạnh là viên tướng lão luyện, sẽ ngồi chờ thắng bại của Liễu Thăng mới hành vi nên hạ lệnh cho Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả cố thủ không đánh.
Tướng trấn giữ biên giới là Trần Lựu liên tục giả cách thua chạy từ Ải Nam Quan về Ải Lưu rồi lại lui về Chi Lăng. Ngày 18/9 âm lịch, Thăng đuổi đến Chi Lăng. Trần Lựu lại thua, Thăng đắc thắng mang 100 quân kị đi trước. Ngày 20, Thăng bị phục binh của Lê Sát, Trần Lựu đổ ra chém chết.
Các tướng thừa dịp xông lên đánh địch, giết hơn 1 vạn quân, chém được Lương Minh, Lý Khánh tự vẫn. Tướng Minh còn sót lại Hoàng Phúc, Thôi Tụ cố kéo về thành Xương Giang thế thủ nhưng đến nơi mới biết thành đã bị quân Lam Sơn hạ, phải đóng quân ngoài đồng không. Lê Lợi sai Trần Nguyên Hãn chặn đường vận lương, sai Phạm Vấn, Nguyễn Xí tiếp ứng cho Lê Sát cùng sáp đánh, giết 5 vạn quân Minh ở Xương Giang. Hoàng Phúc và hơn 3 vạn quân bị bắt, Thôi Tụ không hàng bị giết.
Mộc Thạnh nghe tin Liễu Thăng thua bèn rút chạy. Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả đuổi theo chém hơn 1 vạn quân, bắt sống 1000 người ngựa.
HỘI THỀ ĐÔNG QUAN
Vương Thông nghe tin hai đạo viện binh bị đánh tan, sợ hãi xin giảng hòa để rút quân. Lê Lợi đồng ý cho giảng hòa để quân Minh rút về nước. Ông cùng Vương Thông tiến hành làm lễ thề trong thành Đông Quan, hẹn đến tháng chạp âm lịch năm Đinh mùi (1427) rút quân về.
Lê Lợi đứng tên Trần Cảo là người đang làm vua trên danh nghĩa, sai sứ dâng biểu cho nhà Minh xin được phong. Vua Minh biết Lê Lợi không còn ý tôn Cảo nhưng vì bị thua mãi nên đồng ý phong cho Trần Cảo làm An Nam quốc vương.
Tháng chạp, Vương Thông rút quân về nước. Các tướng muốn giết địch để trả thù tội ác khi cai trị Việt Nam, Lê Lợi không đồng tình vì muốn giữ trung khí hai nước, cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về.
LÊ LỢI LÊN NGÔI VUA
Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài thơ Nam quốc sơn hà.
Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không còn công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (vùng núi phía Tây), nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Một số nhà nghiên cứu và phân tích nghi ngờ việc Cảo phải tự bỏ trốn mà nhận định rằng những tướng của Lê Lợi được lệnh sát hại Cảo, hoặc Cảo bị đe dọa phải bỏ trốn. Tuy nhiên, suy cho cùng Trần Cảo cũng chỉ là con cờ chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà Minh trong một quá trình thiết yếu. Nhà Minh lấy nguyên do lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Hồ.
Ngày 15/4 năm Mậu Thân 1428, tại điện Kính Thiên, Lê Lợi chính thức đăng quang ngôi vua lấy hiệu là “Thuận Thiên thừa vận, Duệ Vân Anh Vũ Đại Vương, lấy lại tên nước Đại Việt và đóng đô ở Đông Đô (tức kinh thành Thăng Long cũ và Tp Hà Nội Thủ Đô ngày này). Với sự kiện này, Lê Thái tổ chính thức dựng lên nhà Hậu Lê.
Hơn 600 năm đã qua, nhưng bài học kinh nghiệm tay nghề của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã đã cho tất cả chúng ta biết một thiên tài kiệt xuất về quân sự, chính trị, ngoại giao được kết tinh bởi sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc bản địa đã làm ra những thắng lợi vang dội. Di sản tư tưởng của Lê Lợi và những nhà lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn sống động trong lịch sử dân tộc bản địa. Đó là tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh, lấy chí nhân và đại nghĩa để thắng hung tàn, cường bạo.
Sự nghiệp đấu tranh giải phóng mà bắt nguồn từ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đã viết nên bản anh hùng ca vĩ đại và là bài học kinh nghiệm tay nghề quý giá cho những thế hệ.
Lễ hội năm nay sẽ được tổ chức tại Khu di tích lịch sử lịch sử Lam Kinh, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa từ ngày 19 đến 21/9 (tức là từ ngày 20 đến 22/8 âm lịch) gắn sát ba sự kiện quan trọng: kỷ niệm 590 năm khởi nghĩa Lam Sơn, 580 năm đăng quang của vua Lê Thái Tổ và 575 năm ngày mất của Anh hùng dân tộc bản địa Lê Lợi - tức Thái Tổ Cao Hoàng đế, người đã có công trong cuộc Bình Ngô, đánh đuổi quân xâm lược, sáng lập vương triều Hậu Lê, một triều đại tồn tại lâu nhất với hơn 360 năm trong lịch sử dân tộc bản địa.
[embed]https://www.youtube.com/watch?v=B2M4iPZK_KU[/embed]